Soạn bài Thao tác lập luận phân tích

I. Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận phân tích
1. Xác định nội dung ý kiến đánh giá của tác giả đối với nhân vật Sở Khanh.
2. Để thuyết phục người đọc, tác giả đã phân tích ý kiến của mình như thế nào?
3. Chỉ ra sự kết hợp chặt chẽ giữa phân tích và tổng hợp trong đoạn trích.
4. Kể thêm một số đối tượng phân tích trong các bài văn nghị luận (xã hội và văn học) .
5. Anh (chị) hiểu thế nào là phân tích trong văn nghị luận? Những yêu cầu của thao tác này là gì?
- Lập luận phân tích là chia nhỏ đối tượng thành các yếu tố bộ phận để xem xét nội dung, hình thức và mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của chúng, rồi khái quát, phát hiện ra bản chất của đối tượng.
- Phân tích bao giờ cũng gắn liền với tổng hợp. Đó là bản chất của thao tác phân tích trong văn nghị luận.
- Yêu cầu của một lập luận phân tích:
+ Xác định vấn đề phân tích.
+ Chia vấn đề thành những khía cạnh nhỏ.
+ Khái quát tổng hợp.
II. Cách phân tích
– Hãy lần lượt phân tích cách phân chia đối tượng trong mỗi đoạn trích trên.
– Chỉ ra mối quan hệ giữa phân tích và tổng hợp được thể hiện trong mỗi đoạn trích.
III. Luyện tập
1. Trong các đoạn trích dưới đây, người viết đã phân tích đối tượng từ những mối quan hệ nào?
a) “Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn” trong lòng Thúy Kiều đêm nay là gậy. Nàng chỉ có thức với ngọn đèn cho đến khi dầu khô trong đĩa mà dòng lệ vẩn không dứt đầm khăn. “Dầu chong tràng đĩa lệ tràn thấm khăn”, bởi nàng chỉ có xót đau rồi đau xót chứ chưa tìm được phương kế nào. “Bàn hoàn” mang ý quanh quẩn, quẩn quanh, lại thêm “những bàn hoàn”, nên càng thêm rối rắm. Âm điệu câu thơ lại xoáy sâu vào trong lòng cô độc, vào chỗ sâu kín nhất, chỉ mình biết mình hay (nỗi riêng, riêng những), càng tăng cái giày vò của tâm trạng đang hoàn toàn bế tắc.                                                                                                                                   
                                                                                                                                                               (Lê Trí Viễn, Đến với thơ hay, NXB Giáo dục, 2001)
b) Còn rất nhiều câu có thể tiêu biểu cho lối cảm xúc riêng của Xuân Diệu. Tôi chỉ dẫn một thí dụ này nữa. Trong bản dịch “Tì bà hành” của Phan Huy Vịnh có hai câu:
                                         Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
                                          Một vùng trăng trong vắt lòng sông.
tả cảnh chung quanh thuyền sau khi người tì bà phụ vừa đánh đàn xong. Một cái cảnh lặng lẽ, lạnh lùng ẩn một mối buồn âm thầm, kín đáo. Thế Lữ có lẽ đã nhớ đến hai câu ấy khi viết:
                                          Tiếng diều sáo nao nao trong vắt,
                                          Trời quang mây xanh ngắt màu lơ.
Mặc dầu hai chữ “nao nao” có đưa vào trong câu thơ một chút rung động, ta vẫn chưa xa gì cái không khí bình yên trên bến Tầm Dương. Với Xuân Diệu cả tình lẫn cảnh trở nên xôn xao vô cùng. Người kĩ nữ của Xuân Diệu cũng bơ vơ như người tì bà phụ. Nhưng nàng không lặng lẽ buồn, ta thấy nàng run lên nì đau khổ:
                                          Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo,
                                         Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.                                                             
                                                          (Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1988)
 
2. Phân tích vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong bài thơ Tự tình II.
Lời giải:
I. Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận phân tích
Câu 1 trang 26 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Xác định nội dung ý kiến đánh giá của tác giả đối với nhân vật Sở Khanh.
Trả lời:
- Nội dung ý kiến đánh giá của tác giả (luận điểm): Sở Khanh là kẻ bẩn thỉu, bần tiện, là đại diện cao nhất của sự đồi bại trong xã hội Truyện Kiều.
Câu 2 trang 26 SGK Ngữ Văn 11 tập 1:  Để thuyết phục người đọc, tác giả đã phân tích ý kiến của mình như thế nào?
Trả lời: 
Để thuyết phục người đọc, tác giả đã đưa ra các luận cứ, dẫn chứng:
- Sở Khanh sống bằng nghề đồi bại, bất chính, nghề sống bám các thanh lâu, nghề làm chồng hờ của các cô gái làng chơi.
- Sở Khanh là kẻ đồi bại nhất trong những kẻ làm cái nghề đồi bại bất chính đó: giả làm người tử tế để đánh lừa một người con gái ngây thơ, hiếu thảo.
- Sau khi lừa bịp hắn còn trở mặt một cách tráo trở.
- Đặc biệt, cái hành động lừa bịp, tráo trở này là hành động thường xuyên của hắn, khiến hắn thậm chí trở thành một tay nổi tiếng bạc tình.
Câu 3 trang 26 SGK Ngữ Văn 11 tập 1:  Chỉ ra sự kết hợp chặt chẽ giữa phân tích và tổng hợp trong đoạn trích.
Trả lời:
- Đoạn văn của Hoài Thanh đã kết hợp được một cách khá chặt chẽ giữa thao tác phân tích và thao tác tổng hợp. Sau khi phân tích chi tiết bộ mặt lừa bịp tráo trở của Sở Khanh, người viết đã tổng hợp kết quả phân tích trước đó thành một kết luận khái quát về cái xã hội trong Truyện Kiều dựa trên bản chất của nhân vật Sở Khanh: "Nó là cái mức cao nhất của tình hình đồi bại trong xã hội này".
Câu 4 trang 26 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Kể thêm một số đối tượng phân tích trong các bài văn nghị luận (xã hội và văn học) 
Trả lời:
- Văn học:
+  Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác).
+ Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (bài II) của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương.
+ Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ).
- Xã hội: Trình bày suy nghĩ về nhận định:
    “Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười nhác”
(Lỗ Tấn)
Câu 5 trang 26 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: . Anh (chị) hiểu thế nào là phân tích trong văn nghị luận? Những yêu cầu của thao tác này là gì?
Trả lời:
- Lập luận phân tích là chia nhỏ đối tượng thành các yếu tố bộ phận để xem xét nội dung, hình thức và mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của chúng, rồi khái quát, phát hiện ra bản chất của đối tượng.
- Phân tích bao giờ cũng gắn liền với tổng hợp. Đó là bản chất của thao tác phân tích trong văn nghị luận.
- Yêu cầu của một lập luận phân tích:
+ Xác định vấn đề phân tích.
+ Chia vấn đề thành những khía cạnh nhỏ.
+ Khái quát tổng hợp.
II. Cách  phân tích
– Hãy lần lượt phân tích cách phân chia đối tượng trong mỗi đoạn trích trên.
– Chỉ ra mối quan hệ giữa phân tích và tổng hợp được thể hiện trong mỗi đoạn trích.
Trả lời:
- Cần dựa trên những tiêu chí, quan hệ nhất định: (Quan hệ giữa các yếu tố tạo nên đối tượng, quan hệ nhân quả, quan hệ giữa đối tượng với các đối tượng liên quan, quan hệ giữa người phân tích với đối tượng phân tích ).
- Phân tích cần đi sâu vào từng mặt, từng bộ phận nhưng cần lưu ý đến quan hệ giữa chúng với nhau, cần khái quát để rút ra bản chất chung của đối tượng.
III. Luyện tập
Câu 1 trang 28 SGK Ngữ Văn 11 tập 1:  Trong các đoạn trích dưới đây, người viết đã phân tích đối tượng từ những mối quan hệ nào?
a) “Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn” trong lòng Thúy Kiều đêm nay là gậy. Nàng chỉ có thức với ngọn đèn cho đến khi dầu khô trong đĩa mà dòng lệ vẩn không dứt đầm khăn. “Dầu chong tràng đĩa lệ tràn thấm khăn”, bởi nàng chỉ có xót đau rồi đau xót chứ chưa tìm được phương kế nào. “Bàn hoàn” mang ý quanh quẩn, quẩn quanh, lại thêm “những bàn hoàn”, nên càng thêm rối rắm. Âm điệu câu thơ lại xoáy sâu vào trong lòng cô độc, vào chỗ sâu kín nhất, chỉ mình biết mình hay (nỗi riêng, riêng những), càng tăng cái giày vò của tâm trạng đang hoàn toàn bế tắc.                                                                                                                                   
                                                                                                                                                               (Lê Trí Viễn, Đến với thơ hay, NXB Giáo dục, 2001)
b) Còn rất nhiều câu có thể tiêu biểu cho lối cảm xúc riêng của Xuân Diệu. Tôi chỉ dẫn một thí dụ này nữa. Trong bản dịch “Tì bà hành” của Phan Huy Vịnh có hai câu:
                                         Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
                                          Một vùng trăng trong vắt lòng sông.
tả cảnh chung quanh thuyền sau khi người tì bà phụ vừa đánh đàn xong. Một cái cảnh lặng lẽ, lạnh lùng ẩn một mối buồn âm thầm, kín đáo. Thế Lữ có lẽ đã nhớ đến hai câu ấy khi viết:
                                          Tiếng diều sáo nao nao trong vắt,
                                          Trời quang mây xanh ngắt màu lơ.
Mặc dầu hai chữ “nao nao” có đưa vào trong câu thơ một chút rung động, ta vẫn chưa xa gì cái không khí bình yên trên bến Tầm Dương. Với Xuân Diệu cả tình lẫn cảnh trở nên xôn xao vô cùng. Người kĩ nữ của Xuân Diệu cũng bơ vơ như người tì bà phụ. Nhưng nàng không lặng lẽ buồn, ta thấy nàng run lên nì đau khổ:
                                          Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo,
                                         Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.                                                              
                                                          (Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1988)
Trả lời: a. Trong đoạn văn trên, quan hệ được lấy làm cơ sở để phân chia đối tượng phục vụ cho việc lập luận phân tích là quan hệ nội bộ của đối tượng (diễn biến, các cung bậc tâm tạng "bàng hoàng" của Thúy Kiều), đó là cung bậc tâm trạng đau xót, quẩn quanh và hoàn toàn bế tắc của Kiều.
b. Quan hệ làm cơ sở cho lập luận phân tích trong đoạn văn trên là quan hệ giữa đối tượng này với đối tượng khác có liên quan: bài thơ Lời kĩ nữ của Xuân Diệu với bài Tì bà hành của Bạch Cư Dị.
Câu 2 trang 28 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Phân tích vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong bài thơ Tự tình II.
Trả lời:
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh và cảm xúc, có sức biểu đạt cao tư tưởng và tâm trạng của nhân vật trữ tình như: văng vẳng, trơ, cái hồng nhan, xiên ngang, đâm toạc, tí, con con...
- Sự kết hợp giữa những động từ mạnh (xiên, đâm) với các bổ ngữ độc đáo (ngang, toạc) làm nổi bật sự bướng bỉnh và ngang ngạnh.
- Nghệ thuật đảo trật tự cú pháp trong hai câu luận:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
- Nghệ thuật sử dụng sóng đôi các cặp từ trái nghĩa, góp phần biểu lộ trạng thái bế tắc: say – tỉnh, khuyết – tròn, đi – lại.
- Nghệ thuật lặp từ (lại, xuân) và phép tăng tiến (san sẻ - tí – con con).
Ghi nhớ:
Mục đích của phân tích là làm rõ đặc điểm về nội dung, hình thức, cấu trúc và các mối quan hệ bên trong, bên ngoài của đối tượng (sự vật, hiện tượng)
Khi phân tích, cần chia, tách đối tượng thành các yếu tố theo những tiêu chí, quan hệ nhất định (quan hệ giữa những yếu tố tạo nên đối tượng, quan hệ nhân quả, quan hệ giữa đối tượng với các đối tượng liên quan, quan hệ giữa người phân tích với đối tượng phân tích,...)